Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14 được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 20/6/2017
1. Luật đã có sự phân biệt TGPL và dịch vụ pháp lý thiện nguyện của các tổ chức xã hội
Hoạt động TGPL cần tuân theo các quy định của Luật này về đối tượng TGPL, người thực hiện, hình thức, lĩnh vực TGPL,… Các tổ chức, cá nhân thực hiện TGPL cần bảo đảm đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ TGPL. Việc tham gia TGPL của các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật được thực hiện thông qua cơ chế ký hợp đồng thực hiện TGPL và đăng ký tham gia TGPL. Việc cung cấp dịch vụ pháp lý thiện nguyện của xã hội (theo Luật Luật sư, Nhgị định số 77/2008/NĐ-CP về tư vấn pháp luật) không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này.
(Nguồn ảnh Internet)
2. Mở rộng diện người được TGPL
Việc xác định người được trợ giúp pháp lý được xây dựng trên nguyên tắc kế thừa những đối tượng đang được TGPL, phù hợp với các chính sách đặc thù và điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam. So với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, diện người được TGPL đã được mở rộng (từ 06 diện người lên 14 diện người). Theo đó, 02 đối tượng kế thừa hoàn toàn từ Luật TGPL năm 2006 là người thuộc hộ nghèo và người có công với cách mạng; 02 đối tượng kế thừa và mở rộng là trẻ em không nơi nương tựa thành tất cả trẻ em, người dân tộc thiểu số “thường trú” thành “cư trú” tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (cư trú sẽ rộng hơn thường trú vì cư trú bao gồm thường trú và tạm trú).
Bên cạnh đó, Luật này đã bổ sung 02 nhóm là người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (hiện nay đang thuộc trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự) và người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo để bảo đảm chính sách hình sự đối với các nhóm đối tượng này. Ngoài ra, Luật có quy định mới trong việc áp dụng điều kiện có khó khăn về tài chính đối với 08 nhóm người như tại Khoản 7 Điều 7 Luật để cung cấp cho những người thật sự có nhu cầu nhưng không có khả năng tài chính để thuê dịch vụ pháp lý. Chính phủ sẽ có quy định chi tiết về điều kiện có khó khăn về tài chính áp dụng với các nhóm người này phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Có thể nói, với việc triển khai hiệu quả Luật TGPL, đáp ứng được đầy đủ, chất lượng nhu cầu TGPL của các diện người được quy định trong luật cũng sẽ góp phần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
3. Bổ sung nguồn tài chính cho công tác TGPL
Luật Trợ giúp pháp lý quy định nguồn tài chính cho công tác TGPL bao gồm nguồn ngân sách nhà nước, đóng góp, tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước, các nguồn hợp pháp khác. Nhà nước bố trí kinh phí trong dự toán ngân sách hằng năm của cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về TGPL theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Đồng thời, đối với các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách, Luật quy định việc ưu tiên bố trí ngân sách từ số bổ sung cân đối ngân sách nhà nước để hỗ trợ thực hiện vụ việc TGPL phức tạp, điển hình. Đây là điểm mới quan trọng, khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cho người thuộc diện được TGPL được giúp đỡ pháp lý khi họ có các vụ việc TGPL cụ thể, đồng thời nhằm khắc phục phần nào tình trạng bỏ sót nhu cầu TGPL của người dân tại các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách.
4. Nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL
Để thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL, Luật TGPL quy định chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện TGPL, quy định tiêu chuẩn đối với tổ chức tham gia TGPL. Cụ thể:
- Về tổ chức tham gia TGPL: để khắc phục tình trạng tham gia TGPL một cách hình thức, không hiệu quả của các tổ chức xã hội, Luật TGPL quy định các điều kiện cụ thể để tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL. Đặc biệt, để ký hợp đồng với các tổ chức có điều kiện tốt nhất cung cấp dịch vụ TGPL Sở Tư pháp sẽ tổ chức lựa chọn theo một quy trình chặt chẽ phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Hơn nữa, Luật có cơ chế trả thù lao cho các tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL nhằm khuyến khích sự tham gia TGPL có chất lượng hơn của các tổ chức này.
- Về người thực hiện TGPL: Luật đã chuẩn hóa, nâng cao tiêu chuẩn Trợ giúp viên pháp lý tương đương với luật sư, cụ thể là bổ sung tiêu chuẩn phải trải qua tập sự nghề (TGPL hoặc luật sư) để trợ giúp viên pháp lý có thời gian tập sự vận dụng kiến thức, kỹ năng trước khi được cung cấp và chịu trách nhiệm về dịch vụ TGPL. Chế định cộng tác viên TGPL được kế thừa trên cơ sở có chọn lọc những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ về pháp luật, có kinh nghiệm và có thể chủ động về thời gian để bảo đảm tham gia công tác TGPL một cách thực chất có hiệu quả.
5. Nâng cao vai trò của Sở Tư pháp
Vai trò của Sở Tư pháp trong việc giúp UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về TGPL ở địa phương được nâng lên thông qua việc quản lý, đánh giá hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước và nắm bắt yêu cầu TGPL tại địa phương lựa chọn các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật có nguyện vọng, có điều kiện tốt nhất, quyết định việc ký hợp đồng thực hiện TGPL.
6. Tập trung thực hiện vụ việc TGPL
Luật TGPL đi đúng bản chất đó là thực hiện các vụ việc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL, chỉ thực hiện TGPL khi có vụ việc cụ thể. Hình thức thực hiện TGPL được quy định theo đúng bản chất yêu cầu của công tác TGPL, cụ thể: Luật TGPL đã kế thừa Luật TGPL năm 2006 và quy định 03 hình thức TGPL, bao gồm: tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng mà không quy định “các hình thức TGPL khác” để tránh dàn trải, tránh trùng lặp với các hoạt động theo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Hòa giải cơ sở… Ngoài ra, Luật cũng đạt ra yêu cầu đối với đội ngũ trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nước tập trung thực hiện vụ việc tố tụng thông qua quy định Trợ giúp viên pháp lý không thực hiện vụ việc tham gia tố tụng trong thời gian 02 năm liên tục sẽ bị miễn nhiệm, trừ trường hợp do nguyên nhân khách quan.
7. Tạo thuận lợi hơn cho người được TGPL
Luật có nhiều quy định mới để tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ, như: quy định phải công bố danh sách người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL để người dân biết và thực hiện quyền lựa chọn của mình; ngoài hình thức nộp đơn trực tiếp, gửi qua đường bưu điện, người dân có thể nộp đơn yêu cầu qua hình thức điện tử, fax; việc yêu cầu TGPL có thể do các tổ chức, cá nhân khác thực hiện; thụ lý giải quyết ngay khi người yêu cầu chưa thể cung cấp hồ sơ theo quy định nhưng cần thực hiện TGPL ngay (vụ việc sắp hết thời hiệu, sắp đến ngày xét xử).
8. Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đối với hoạt động TGPL
Luật TGPL bổ sung một số quy định nhằm tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đối với hoạt động TGPL, cụ thể:
- Luật TGPL quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng phối hợp tạo điều kiện cho người được TGPL được hưởng quyền TGPL, tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật, đồng thời quy định thời hạn cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm TGPL nhà nước tại địa phương về yêu cầu TGPL của bị can, bị cáo, người bị hại là người được TGPL. Đây là những nội dung quan trọng trong bối cảnh Bộ luật Tố tụng hình sự quy định việc chỉ định người bào chữa mở rộng cho những bị can, bị cáo về tội có khung hình phạt là 20 năm tù thì số lượng vụ việc được giới thiệu từ cơ quan tiến hành tố tụng sang Trung tâm TGPL nhà nước sẽ tăng lên.
- Đối với các cơ quan nhà nước có liên quan, Luật quy định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình nếu phát hiện công dân thuộc diện được TGPL, cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải thích quyền được TGPL và giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL.
- Quy định trách nhiệm của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức chủ quản của tổ chức tư vấn pháp luật trong hoạt động TGPL.
9. Sắp xếp, tinh gọn các Chi nhánh của Trung tâm TGPL của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
Từ tổng kết thực tiễn thi hành Luật TGPL năm 2006, nhằm bảo đảm phù hợp với Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, Luật TGPL quy định việc rà soát, sắp xếp lại, sáp nhập hoặc giải thể các Chi nhánh đã được thành lập, bảo đảm hiệu quả hoạt động. Trong trường hợp thực sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu của nhân dân, Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập mới Chi nhánh. Cụ thể Chi nhánh chỉ được thành lập tại các huyện ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông không thuận tiện đến Trung tâm TGPL nhà nước, chưa có tổ chức hành nghề luật sư hoặc tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL.
Đỗ Sáu
Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14 được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 20/6/2017
1. Luật đã có sự phân biệt TGPL và dịch vụ pháp lý thiện nguyện của các tổ chức xã hội
Hoạt động TGPL cần tuân theo các quy định của Luật này về đối tượng TGPL, người thực hiện, hình thức, lĩnh vực TGPL,… Các tổ chức, cá nhân thực hiện TGPL cần bảo đảm đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ TGPL. Việc tham gia TGPL của các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật được thực hiện thông qua cơ chế ký hợp đồng thực hiện TGPL và đăng ký tham gia TGPL. Việc cung cấp dịch vụ pháp lý thiện nguyện của xã hội (theo Luật Luật sư, Nhgị định số 77/2008/NĐ-CP về tư vấn pháp luật) không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này.
2. Mở rộng diện người được TGPL
Việc xác định người được trợ giúp pháp lý được xây dựng trên nguyên tắc kế thừa những đối tượng đang được TGPL, phù hợp với các chính sách đặc thù và điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam. So với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, diện người được TGPL đã được mở rộng (từ 06 diện người lên 14 diện người). Theo đó, 02 đối tượng kế thừa hoàn toàn từ Luật TGPL năm 2006 là người thuộc hộ nghèo và người có công với cách mạng; 02 đối tượng kế thừa và mở rộng là trẻ em không nơi nương tựa thành tất cả trẻ em, người dân tộc thiểu số “thường trú” thành “cư trú” tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (cư trú sẽ rộng hơn thường trú vì cư trú bao gồm thường trú và tạm trú).
Bên cạnh đó, Luật này đã bổ sung 02 nhóm là người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (hiện nay đang thuộc trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự) và người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo để bảo đảm chính sách hình sự đối với các nhóm đối tượng này. Ngoài ra, Luật có quy định mới trong việc áp dụng điều kiện có khó khăn về tài chính đối với 08 nhóm người như tại Khoản 7 Điều 7 Luật để cung cấp cho những người thật sự có nhu cầu nhưng không có khả năng tài chính để thuê dịch vụ pháp lý. Chính phủ sẽ có quy định chi tiết về điều kiện có khó khăn về tài chính áp dụng với các nhóm người này phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Có thể nói, với việc triển khai hiệu quả Luật TGPL, đáp ứng được đầy đủ, chất lượng nhu cầu TGPL của các diện người được quy định trong luật cũng sẽ góp phần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
3. Bổ sung nguồn tài chính cho công tác TGPL
Luật Trợ giúp pháp lý quy định nguồn tài chính cho công tác TGPL bao gồm nguồn ngân sách nhà nước, đóng góp, tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước, các nguồn hợp pháp khác. Nhà nước bố trí kinh phí trong dự toán ngân sách hằng năm của cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về TGPL theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Đồng thời, đối với các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách, Luật quy định việc ưu tiên bố trí ngân sách từ số bổ sung cân đối ngân sách nhà nước để hỗ trợ thực hiện vụ việc TGPL phức tạp, điển hình. Đây là điểm mới quan trọng, khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cho người thuộc diện được TGPL được giúp đỡ pháp lý khi họ có các vụ việc TGPL cụ thể, đồng thời nhằm khắc phục phần nào tình trạng bỏ sót nhu cầu TGPL của người dân tại các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách.
4. Nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL
Để thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL, Luật TGPL quy định chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện TGPL, quy định tiêu chuẩn đối với tổ chức tham gia TGPL. Cụ thể:
- Về tổ chức tham gia TGPL: để khắc phục tình trạng tham gia TGPL một cách hình thức, không hiệu quả của các tổ chức xã hội, Luật TGPL quy định các điều kiện cụ thể để tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL. Đặc biệt, để ký hợp đồng với các tổ chức có điều kiện tốt nhất cung cấp dịch vụ TGPL Sở Tư pháp sẽ tổ chức lựa chọn theo một quy trình chặt chẽ phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Hơn nữa, Luật có cơ chế trả thù lao cho các tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL nhằm khuyến khích sự tham gia TGPL có chất lượng hơn của các tổ chức này.
- Về người thực hiện TGPL: Luật đã chuẩn hóa, nâng cao tiêu chuẩn Trợ giúp viên pháp lý tương đương với luật sư, cụ thể là bổ sung tiêu chuẩn phải trải qua tập sự nghề (TGPL hoặc luật sư) để trợ giúp viên pháp lý có thời gian tập sự vận dụng kiến thức, kỹ năng trước khi được cung cấp và chịu trách nhiệm về dịch vụ TGPL. Chế định cộng tác viên TGPL được kế thừa trên cơ sở có chọn lọc những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ về pháp luật, có kinh nghiệm và có thể chủ động về thời gian để bảo đảm tham gia công tác TGPL một cách thực chất có hiệu quả.
5. Nâng cao vai trò của Sở Tư pháp
Vai trò của Sở Tư pháp trong việc giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về TGPL ở địa phương được nâng lên thông qua việc quản lý, đánh giá hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước và nắm bắt yêu cầu TGPL tại địa phương lựa chọn các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật có nguyện vọng, có điều kiện tốt nhất, quyết định việc ký hợp đồng thực hiện TGPL.
6. Tập trung thực hiện vụ việc TGPL
Luật TGPL đi đúng bản chất đó là thực hiện các vụ việc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL, chỉ thực hiện TGPL khi có vụ việc cụ thể. Hình thức thực hiện TGPL được quy định theo đúng bản chất yêu cầu của công tác TGPL, cụ thể: Luật TGPL đã kế thừa Luật TGPL năm 2006 và quy định 03 hình thức TGPL, bao gồm: tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng mà không quy định “các hình thức TGPL khác” để tránh dàn trải, tránh trùng lặp với các hoạt động theo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Hòa giải cơ sở… Ngoài ra, Luật cũng đạt ra yêu cầu đối với đội ngũ trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nước tập trung thực hiện vụ việc tố tụng thông qua quy định Trợ giúp viên pháp lý không thực hiện vụ việc tham gia tố tụng trong thời gian 02 năm liên tục sẽ bị miễn nhiệm, trừ trường hợp do nguyên nhân khách quan.
7. Tạo thuận lợi hơn cho người được TGPL
Luật có nhiều quy định mới để tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ, như: quy định phải công bố danh sách người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL để người dân biết và thực hiện quyền lựa chọn của mình; ngoài hình thức nộp đơn trực tiếp, gửi qua đường bưu điện, người dân có thể nộp đơn yêu cầu qua hình thức điện tử, fax; việc yêu cầu TGPL có thể do các tổ chức, cá nhân khác thực hiện; thụ lý giải quyết ngay khi người yêu cầu chưa thể cung cấp hồ sơ theo quy định nhưng cần thực hiện TGPL ngay (vụ việc sắp hết thời hiệu, sắp đến ngày xét xử).
8. Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đối với hoạt động TGPL
Luật TGPL bổ sung một số quy định nhằm tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đối với hoạt động TGPL, cụ thể:
- Luật TGPL quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng phối hợp tạo điều kiện cho người được TGPL được hưởng quyền TGPL, tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật, đồng thời quy định thời hạn cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm TGPL nhà nước tại địa phương về yêu cầu TGPL của bị can, bị cáo, người bị hại là người được TGPL. Đây là những nội dung quan trọng trong bối cảnh Bộ luật Tố tụng hình sự quy định việc chỉ định người bào chữa mở rộng cho những bị can, bị cáo về tội có khung hình phạt là 20 năm tù thì số lượng vụ việc được giới thiệu từ cơ quan tiến hành tố tụng sang Trung tâm TGPL nhà nước sẽ tăng lên.
- Đối với các cơ quan nhà nước có liên quan, Luật quy định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình nếu phát hiện công dân thuộc diện được TGPL, cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải thích quyền được TGPL và giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL.
- Quy định trách nhiệm của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức chủ quản của tổ chức tư vấn pháp luật trong hoạt động TGPL.
9. Sắp xếp, tinh gọn các Chi nhánh của Trung tâm TGPL của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
Từ tổng kết thực tiễn thi hành Luật TGPL năm 2006, nhằm bảo đảm phù hợp với Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, Luật TGPL quy định việc rà soát, sắp xếp lại, sáp nhập hoặc giải thể các Chi nhánh đã được thành lập, bảo đảm hiệu quả hoạt động. Trong trường hợp thực sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu của nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập mới Chi nhánh. Cụ thể Chi nhánh chỉ được thành lập tại các huyện ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông không thuận tiện đến Trung tâm TGPL nhà nước, chưa có tổ chức hành nghề luật sư hoặc tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL.